Những biện pháp để bảo đảm việc thực hiện chế định miễn TNHS đối với người phạm tội?
- by Luật Bạch Đằng Giang
- 5 năm ago
- 0 comments
Câu hỏi: Để đảm bảo việc thực hiện chế định miễn TNHS đối với người phạm tội được thuận lợi và cụ thể, qua nghiên cứu cũng như từ thực tiễn hành nghề, luật sư có góp ý gì xung quanh vấn đề miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ Luật Hình sự 2015?
Trả lời:
Theo tôi để đảm bảo việc thực hiện chế định miễn TNHS đối với người phạm tội được thuận lợi và cụ thể thì cần phải hoàn thiện những vấn đề như sau:
– Một là, để đảm bảo việc thực hiện chế định miễn TNHS đối với người phạm tội được thuận lợi và cụ thể, quy định tại Điều 29 BLHS cần phải thể hiện rõ theo hướng trường hợp nào việc miễn TNHS thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án; trường hợp nào chỉ thuộc thẩm quyền của Tòa án. Ngoài ra, quy định về miễn TNHS còn nằm rãi rác ở nhiều điều luật khác nhau, có cả trong BLHS và BLTTHS, như quy định về miễn TNHS khi người phạm tội tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội, miễn TNHS khi người yêu cầu rút yêu cầu khởi tố vụ án và quy định miễn TNHS tại các điều luật cụ thể về tội phạm. Để đảm bảo tính nhất quán trong quy phạm pháp luật, các quy định này phải được quy định thống nhất vào một điều luật cụ thể để làm căn cứ miễn TNHS cho người phạm tội.
– Hai là, các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể trường hợp nào được miễn, trường hợp nào không được miễn TNHS khi thuộc khoản 2, khoản 3 Điều 29 và khoản 2 Điều 91 BLHS tránh áp dụng một cách tùy tiện, thậm chí dẫn đến vi phạm nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong khi giải quyết vụ án hình sự đối với những người phạm tội khác nhau. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 29 BLHS thì việc xác định có thể miễn TNHS cho người phạm tội hay không phụ thuộc phần lớn vào nhận thức chủ quan của con người, mà cụ thể là của người tiến hành tố tụng. Khi đã giao quyền quyết định cho cá nhân những người tiến hành tố tụng thì đương nhiên có sự nhận định khác nhau giữa những người này. Thực tế cho thấy, đối với vụ việc này, với các tình tiết cụ thể thì người tiến hành tố tụng trong vụ án này nhận định có thể miễn TNHS cho người phạm tội, nhưng đối với người tiến hành tố tụng khác thì nhận định không thể miễn TNHS cho người phạm tội. Do vậy, cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về các tiêu chí, để khi thuộc các tiêu chí đó thì phải miễn TNHS cho người phạm tội.
– Ba là, sửa đổi Điều 230 và 248 BLTTHS lại cho phụ hợp với quy định tại Điều 29 BLHS. Để đảm bảo thống nhất giữa quy định của BLHS và BLTTHS về thẩm quyền quyết định miễn TNHS cho người phạm tội, tại Điều 230 và 248 BLTTHS phải sửa đổi theo hướng khi thuộc khoản 1, khoản 2 Điều 29 thì đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án; đối với quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS thì không thuộc trường hợp đình chỉ ở giai đoạn điều tra và truy tố.
– Bốn là, trong các tội phạm cụ thể mà BLHS quy định có năm tội danh khi người phạm tội thực hiện hành vi, nhưng có các tình tiết cụ thể thì được xem xét miễn TNHS, đó là quy định tại khoản 4 Điều 110, khoản 4 Điều 247, khoản 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365 và khoản 2 Điều 390 BLHS. Quy định tại khoản 4 Điều 247, khoản 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365 và khoản 2 Điều 390 BLHS, khi có tình tiết nhất định thì xem xét có thể miễn TNHS cho người phạm tội; nhưng khoản 4 Điều 110 BLHS thì quy định được miễn TNHS cho người phạm tội. Rõ ràng cùng tính chất là người thực hiện hành vi phạm tội, nhưng lại có sự quy định không thống nhất nhau về trường hợp xem xét miễn TNHS giữa các tội phạm khác nhau là chưa phù hợp. Do vậy, để đảm bảo thống nhất giữa các điều luật về tội phạm cụ thể và Điều 29 BLHS thì khoản 4 Điều 110 BLHS cần quy định lại khi người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì có thể được miễn TNHS.