Câu hỏi: Anh Trịnh Văn Thảo, ở xã Dũng Tiến, huyện Vĩnh Bảo hỏi Có 1 số điện thoại bàn gọi điện vào máy tôi nói là bên tông công ty mạng di động cuối năm quay số mở thưởng và số điện thoại của tôi đang sử dụng được trúng thưởng 1 chiếc xe máy và 150 triệu đồng. Bên đó yêu cầu xác nhận thông tin bằng cách nạp thẻ cào và sau đó chuyển máy cho tôi gặp cục trưởng bộ Công an và yêu cầu xác nhận lại thông tin để trao thưởng. Chúng rất rõ về những thông tin của tôi nên tôi tin tưởng và mua thẻ cào lên đến 80 triệu . Nhưng sau đó,tôi phát hiện mình bị lừa. Vậy hành vi trên có vi phạm pháp luật không? Nếu có thì bị xử phạt như thế nào?
Trả lời:
Đối với trường hợp của bạn trên theo thông tin bạn cung cấp đây là hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác, theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
- a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
- b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
- c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Căn cứ quy định nêu trên, để xác định một người có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không cần đảm bảo các yếu tố cấu thành tội phạm (cần và đủ). Trong đó: hành vi dùng thủ đoạn gian dối và mục đích chiếm đoạt tài sản. Gian dối là đặc trưng cơ bản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không phải là dấu hiệu duy nhất của tội phạm, mà ngoài thủ đoạn gian dối, người phạm tội còn phải có mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự, người thực hiện hành vi vi phạm bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài khi có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm. Còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Vậy trường hợp của anh, giá trị tài sản của anh bị chiếm đoạt là 80.000.000 VNĐ, vì vậy hành vi này đã đủ yếu tố cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: “c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;”