Ngoài việc trục lợi từ việc thu tiền quảng cáo, một số trang web còn tự động chuyển sang các trang lừa đảo, “dụ” người dùng cung cấp tài khoản Facebook, gmail… dẫn đến nguy cơ bị đánh cắp tài khoản. Vậy còn đối với hành vi này sẽ bị xử lý như thế nào, thưa luật sư?
Tại Điều 17 Luật An ninh mạng sẽ giúp bảo vệ người dân trước các hoạt động gián điệp mạng; bảo vệ bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng. Điều 18 Luật An ninh mạng giúp bảo vệ người dân khỏi các hoạt động tội phạm mạng; như chiếm đoạt tài sản, trộm cắp thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng… Điều 19, Luật An ninh mạng trao công cụ để bảo vệ người dân khỏi hoạt động tấn công mạng; như tán phát mã độc, tấn công từ chối dịch vụ…
Việc đánh cắp tài khoản Facebook cá nhân của người khác nhằm đánh cắp các thông tin cá nhân; là hành vi vi phạm pháp luật, được quy định ở các luật sau: Điều 21 Hiến pháp 2013; Điều 38, Điều 387 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 7 Luật An toàn thông tin mạng 2015… trên thực tế cho thấy việc mua bán thông tin cá nhân trên mạng internet; đang diễn ra hết sức công khai và rầm rộ. Nhiều người sau khi đánh cắp tài khoản Facebook người khác không nhằm mục đích mua bán; sẽ tung những thông tin cá nhân của chủ tài khoản Facebook; gây ảnh hưởng đến tâm ký, sức khỏe, công việc … của người đó.
Do vậy hành vi đánh cắp tài khoản Facebook người khác là hành vi vi phạm pháp luật; xâm hại đến quyền được bảo mật thông tin cá nhân của một người; hành vi này có thể bị xử phạt hành chính; hoặc truy cứu hình sự tùy vào hành vi vi phạm.
Thứ nhất: Xử phạt hành chính hành vi
Hành vi Đánh cắp tài khoản Facebook, gmail…. người khác sẽ bị xử phạt theo quy định tại Điều 80 Nghị định 15/2020/NĐ-CP
“Điều 80. Vi phạm quy định về cung cấp, sử dụng trái phép thông tin trên mạng
1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối hành vi bẻ khóa, trộm cắp, sử dụng mật khẩu, khóa mật mã và thông tin của tổ chức, cá nhân khác trên môi trường mạng.
2. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Truy cập trái phép vào mạng hoặc thiết bị số của người khác để chiếm quyền điều khiển thiết bị số hoặc thay đổi, xóa bỏ thông tin lưu trữ trên thiết bị số hoặc thay đổi tham số cài đặt thiết bị số hoặc thu thập thông tin của người khác;
b) Xâm nhập, sửa đổi, xóa bỏ nội dung thông tin của tổ chức, cá nhân khác trên môi trường mạng;
c) Cản trở hoạt động cung cấp dịch vụ của hệ thống thông tin;
d) Ngăn chặn việc truy nhập đến thông tin của tổ chức, cá nhân khác trên môi trường mạng, trừ trường hợp pháp luật cho phép;
……………”
Như vậy, thông thường, nếu chỉ hack Facebook người khác chỉ bị phạt hành chính 10 triệu đồng. Theo Điều 80 của Nghị định này; người có hành vi bẻ khóa, trộm cắp, sử dụng mật khẩu; khóa mật mã và thông tin của tổ chức; cá nhân khác trên môi trường mạng sẽ bị xử phạt với số tiền từ 10-20 triệu đồng. Mức phạt này sẽ dao động từ 30-50 triệu đồng; đối với hành vi truy cập trái phép vào mạng hoặc thiết bị số của người khác; để chiếm quyền điều khiển thiết bị số hoặc thay đổi, xóa bỏ thông tin lưu trữ trên thiết bị
Thứ hai: Truy cứu trách nhiệm hình sự
Trong một số trường hợp, người đánh cắp tài khoản mạng xã hội; hack Facebook, gmail ….. người khác cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cá tôi như sau:
– Tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác (Điều 159 BLHS) với khung hình phạt thấp nhất là bị phạt cảnh cáo; phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm; khung hình phạt cao nhất của tội này lên đến 03 năm tù giam; nếu phạm tội có tổ chức, lợi dụng quyền hạn, làm nạn nhân tự sát…
– Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 288 BLHS) với khung hình phạt thấp nhất là bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; khung hình phạt cao nhất là phạt tù 07 năm.v